Kẻ Bôn (nay là Đông Thanh – huyện Đông Sơn), làng Việt cổ bên bờ sông Lê. Ở Xứ Thanh, nếu Hoằng Lộc xem học là một nghề, “Nghề học”, thì Kẻ Bôn dạy học là “Nghề”. Có lẽ vậy, mà người dân trong vùng hay kể về “Ông Đồ” Kẻ Bôn.
Theo Lê Đường Lê Biên
(Gia phả họ Lê Văn Hưu, Kẻ Rị) có viết: “Lê
Văn Hưu mặt mày đầy đặn, tư chất nhanh
sáng, lên chín tuổi theo học ông thầy họ Nguyễn người xã Phúc Triền, học ngày
càng tiến, được thầy học yêu khen, được người thầy gả con gái cả
cho Lê Văn Hưu”.
Sách Kẻ Rị - Kẻ Chè, 1988, tác giả Lê
Huy Trâm, chép rằng: “Cu Quét (Lê Quát) sang học với thầy Phúc Triền. Cũng
chỉ được mấy tháng trời, quan Bảng cũng khiếp tài anh Cu Quét. Hết cả chữ dạy,
quan Bảng giới thiệu lên kinh đô học thầy Chu Văn An với cái tên đầy đủ: Lê Bá
Quát[1].
Sau này, người thầy Phúc Triền (Kẻ Bôn) gả con gái cho Lê Quát”.
Nguyễn Văn Nghi (1515 –
1583)[2], đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa
xuất thân, đứng thứ 2, giữ chức Lại bộ tả thị lang, Đông các đại học sĩ, Nhập
thị Kinh diên, tước Bá, sau khi mất được tặng Thượng thư, Thái bảo, phong phúc
thần. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét về ông như sau: “Ông là bậc danh Nho đỗ
cao, được 3 vua tri ngộ, sự nghiệp và tiếng tăm hơn cả các Nho thần đầu thời
Trung Hưng”. (Theo Lịch triều hiến chương loại chí). Ông là ân sư của vua
Lê Anh Tông và Lê Thế Tông.
Đền thờ Đông Các Đại Học Sĩ Nguyễn Văn Nghi
Như vậy, chính học trò Lê
Văn Hưu, Lê Quát, đức vua Lê Anh Tông và đức vua Lê Thế Tông và các thế hệ học trò trong vùng
đã làm sáng tỏ tài đức, đạo làm thầy của các ông đồ Kẻ Bôn.
Với truyền thống nho học,
Kẻ Bôn là đất khoa bảng của Xứ Thanh, thời Phong Kiến có 7 vị đỗ đại khoa.
1) Nguyễn
Văn Nghi đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa, đứng thứ 2, khoa thi năm 1554, Giữ chức Đông
các đại học sĩ, Lại bộ tả thị lang, Nhập thị Kinh Diên, tước Bá, Sau khi mất, ông được
tặng Thượng thư, Thái bảo, phong phúc thần.
2) Nguyễn Văn Lễ (cháu nội Nguyễn Văn Nghi),
đỗ Hoàng Giáp, khoa thi năm 1602, chức Hàn lâm viện lý, tước Nam;
3) Lê
Khả Trù, đỗ tiến sĩ khoa thi năm 1628, giữ chức Hộ khoa đô cấp trung sự;
4) Cao Cử đỗ tiến sĩ khoa thi 1646, giữ chức Giám
sát Ngự sử;
5) Thiều Sỹ Lâm đậu thám hoa khoa thi 1670, giữ
chức Tham chính;
6) Lê Khả Trinh đỗ tiến sĩ khoa thi 1676, giữ
chức Hiến sứ, (cháu nội của Lê Khả Trù).
7) Lê Thế Thứ đỗ Phó bảng
khoa thi năm 1844, giữ chức Đốc học. (Phó bảng là học vị lấy thêm, sau tiến
sĩ, Phó bảng không được ghi trong Bia)
Xã Đông Thanh hiện nay vẫn
phát huy được truyền thống khoa bảng, và giữ được nghề truyền thống “Nghề dạy học”,
có hàng chục tiến sĩ, hàng trăm thầy cô giáo ở tất cả các cấp học, được các thế
hệ học trò tri ân.
Trong số đó, thầy La Đức
Quang, ở thầy ta thấy tâm thế của ông đồ Cổ Bôn, tận tâm với chuyên môn, không
màng chính trị. Thầy giúp bao thế hệ học trò đi tìm đáp án của những bài toán:
Đạo hàm, vi phân, tích phân, đi tìm quỹ tích của các điểm; giúp các học trò xác
định được “Qũy đạo” hướng đi của chính mình. Thật vậy! Thầy đã định được “quỹ
tích” lối đi cho riêng mình từ sớm, nên không màng chính trị, tận tâm vào con số,
thơ phú, chữ nghĩa văn chương.
Có thể lấy một phần tâm
thế của thầy qua bài Thơ “Ngất”
“Đôi
khi lất ngất tưởng mình điên
Nghĩ
lại là do mình thiếu tiền
Biết
lắm cho nên nhiều kẻ ghét
Yêu
nhiều chỉ tổ vợ hay ghen
Túi
thơ mơ mộng quên trần thế
Bầu
rượu bâng khuâng, tiếc cảnh tiên
Ngao
ngán buồn tênh khi chợt tỉnh
Vui
cùng thơ rượu mộng triền miên.
Có
thể tìm thấy khả năng thơ phú, đời thực của thầy qua bài “Giấc Mộng Hoàng
Lương”
Một tối tôi mơ gặp Tản Đà
Tay đàn miệng hát dáng hào hoa
Theo hầu còn có mươi tiên nữ
Tha thướt mang thơ rượu với trà
Thấy tôi bác gọi bớ thằng em
Chú ở đâu ta? Tớ thấy quen
Có việc chi mà lên thượng giới
Lại đây uống rượu đỡ cơn thèm
Chú nói anh nghe ở dưới trần
Dạo này còn nhớ đến thằng Anh
Hay là đổi mới lo nhiều việc
Bỏ cả văn chương để kiếm tiền
Anh ở trên này thật sướng ghê
Làm thơ dạy hát cả hai nghề
Rượu say túy lúy quên ngày tháng
Cuộc sống thần tiên thật hết chê
Đương khi uống rượu đã ngà say
Nghe hỏi tôi bèn đáp lại ngay
Quả ở trần gian đời đã chán
Nhưng lên thượng giới chắc gì hay
Bác Tản tròn xoe mắt ngạc nhiên
Thằng em đã đánh mất lòng tin
Ngọc Hoàng đổi mới nền kinh tế
Cuộc sống bây giờ cuộc sống tiên
Hãy lên cùng tớ chú mày ơi!
Uống rượu bình thơ sướng nhất đời
Ngủ dưới gốc đa cùng chú Cuội
Hằng Nga tối tối cũng sang chơi
Tôi hét to lên nhất trí thôi
Xin lên hầu bác để mà chơi
Giật mình tỉnh giấc buồn man mác
Giấc mộng Hoàng lương đã hết rồi!
Như vậy, có thể nói Kẻ Bôn xưa, Đông Thanh nay là đất “ông đồ”, địa linh nhân kiệt, đất này sinh ra những người này, làm được những việc kia. Có lẽ vậy mà người dân trong vùng trước đây thường nói “Lấy chồng Bôn Rị làm quan, lấy chồng Tuyên Hóa đốt than lộn chồng”.
Một số hình ảnh khác tại đền thờ tướng công Nguyễn Văn Nghi
[1] Cũng có người gọi
ông Lê Bá Quát thời nhỏ là “chũn” (tiếng
địa phương) tức là cái chổi quét chợ và
đậu tiến sĩ thì gọi là Trạng Chũn .
[2]
Theo Hannom.org chép (1526-1595)