Kẻ Rị là làng khoa bảng của Xứ Thanh, nơi đây có nghề làm thừng, chão, chính nghề này đã sinh ra bao điệu hò, câu hát của các anh, các chị lúc nông nhàn, chẻ nứa, chắp thừng. Họ là những người ít được học, phần đa là không biết chữ, nhưng để lại cho thế hệ sau những câu hò, điệu hát đi vào lòng người, khó mà kiềm chế được sự ngưỡng mộ về sự sâu sắc, ý tứ của các thế hệ trước.
Do thị trường hàng hóa đa dạng và phong phú, nghề làm thừng đã không còn trên vùng đất Kẻ Rị, nhưng những câu hò, điệu hát còn vang mãi các thế hệ sau.
Các cụ vẫn chẻ nan, lạt để gói bánh Chưng mỗi dịp Tết
-
Anh đây chính thức thủ đô
Anh
vào làng Rị gặp O đánh thừng.
-
Ai vào làng Rị nhắn chị hàng thừng
Trăm
chắp ngàn nối xin đừng quên nhau.
-
Cơm ăn mỗi bữa mỗi bò
Lấy
người làng Rị phải lo đánh thừng.
-
Làng Rị tốt đất cao nền
Ai
về làng Rị cũng quên cửa nhà.
Ai về làng Rị quê ta
Có
sông tắm mát, có nhà nghỉ chân
Tháng
Ba ngày Tám thanh nhàn
Vợ
chồng mua nứa chẻ nan mằn (làm) thừng.
-
Trời làm cực nhọc vì đâu
Suốt
ngày em chỉ dao cau[1]
với nứa thừng?
Anh
đây tứ hải giao phương
Thấy
em anh những xót thương thay là.
-
Làng em có ông tổ làm thừng
Ruộng
đồng vãn việc, trông chừng làm thêm
Gọi là cá mắm, dầu đèn
Đồng trầu, đồng muối, không quên cày bừa
Anh
đừng tính chuyện say sưa
Giao
du quên việc sớm trưa ruộng đồng.
-
Cây nứa ruột trắng vỏ xanh
Ngoài
xanh trong trắng quấn quanh đẹp là
Nứa xinh, nứa đến quê ta
Dẻo bền mà chắp thừng đà nên đôi.
-
Thừng
bền thừng lại nên đôi
Xoắn xoa xoắn xuýt như lời kết giao
Chàng ơi! Đông liễu Tây đào
Thiệt
cho cây nứa dẻo cắm sào đợi ai!
-
Một lời đã trót tâm giao
Dưới
dày có đất, trên cao có trời
Dẻo
giang thừng nứa thông rời
Tây
đào Đông liễu mặc người ta vui.
-
Thuyền tình cứ bến trông chừng
Nứa
kia cứ nhớ làng thừng mà vô
Ruộng
đồng sông xá lô xô
Vui
thay thừng chão[2]
bốn mùa thong dong.
-
Tay em cầm lá dao bài
Chẻ
nan thoăn thoắt tựa người cung tiên
Nứa
thơm nứa ngọt như men
Cho
anh chẻ nứa làm duyên Tấn Tần[3].
-
Dao lá bài sắc lắm anh ơi!
Cật
nứa cũng sắc lỡ thời đứt tay
Nửa mai máu chảy ruồi bay
Ở
nhà chị cả mượn thầy kiện em.
-
Anh đã có vợ con đâu
Không
tin anh bẻ cành dâu anh thề.
-
Anh thề em cũng tin anh
Đường
xa ngái khuất cho tình đắn đo
Sông
sâu đã mấy ai mô?
Một
cây nứa chẻ ai dò là mấy con găm?
-
Đôi ta xoắn xuýt như thừng
Đẹp
đôi đẹp lứa duyên càng thắm tươi.
-
Đôi ta đẹp tựa thừng đôi
Thơm
như nứa mới đậm lời kết giao.
-
Đôi ta như gác thừng riêng
Tháng
Năm đi gặt, tháng Hai hội làng.
-
Đôi ta như chão như thừng
Giàu ăn khó chịu, dong lường mặc ai!
-
Đôi
ta như vạn con găm
Cây cao cành lá vượt tầm khoe tươi.
-
Đôi
ta như nứa về làng
Người thân thăm hỏi, họ hàng mừng cho.
-
Đôi
ta như thừng buộc đôi
Sáng ra chợ Rị bày nơi quán vàng.
-
Đôi
ta như thừng chóc ba
Người làng khen ngợi, người xa trầm trồ.
-
Đôi
ta như thừng chóc tư
Lên rừng xuống biển có hư cũng bền.
-
Còn không
cho chúng anh chờ
Thừng kia chớ chắp mối hờ cho ai.
-
Ai
đo thừng vắn (ngắn) thừng dài
Làm thừng để buộc, ai chơi bao giờ.
-
Buộc
cho chặt mấy anh chờ
Thừng săn, buộc lỏng túi cô bán hàng.
-
Trông
chừng kheo khéo mà lôi
Nghiến răng trợn mắt thừng tôi khó bền.
-
Mua thừng về xỏ mũi trâu
Bấy nay anh những sợ câu thế thường.
-
Chồng
hiền em quý em thương
Mũi trâu mặc mũi, thế thường mặc ai.
-
Đố
anh vui nhất xứ Thanh
Làng mô thừng nứa đánh nhanh đánh tài?
-
Đố
anh đi khắp Đông Đoài;
Làng mô thừng nứa đánh tài đánh nhanh?
-
Đố
anh tính toán nhập tâm
Một đôi thừng nứa mấy con găm cho rành?
-
Làng
Rị có gốc bồ đề
Để anh biết được ông tổ nghề thừng ta?
-
Làng
Rị có đất vua về
Sông Hương ngọt nước, trên chùa có bia
Có nghề làm ruộng sớm trưa
Có nghề đi sớm về khuya buôn đồng.
-
Chợ
Rị một tháng sáu phiên
Đố anh thừng chão ngồi viền (về) hàng mô?
Chợ Rị có lắm người dưng
Đố anh đếm được số thừng làng em?
[1]
Là loại dao nhỏ dùng để chẻ nan, lạt từ cây nứa
[2]
Là loại to gần gấp đôi sợi thừng
[3]
Trước đây, thời Xuân Thu, Chiến Quốc, trai tài, gái sắc của hai nước Tấn và Tần
thường kết duyên với nhau – Thầy La Đức Quang, giải nghĩa