Phú Long Mạch Xứ Thanh – Rồng rắn lên TV đông như trẩy hội



Than ôi!

Xứ Thanh địa linh, sông uốn mạch rồng, núi tựa long ngai;
Đất rộng người đông, mây ôm ngực biển, gió vờn lưng non.
Bắc giáp  Ninh Bình, Nam kề Nghệ An, phên dậu dựng ngang trời đất;
Tây trấn sơn hà, Đông soi bể thẳm, thế ngồi như “ngai lớn” ngó khơi xa.

 Sông Chu hiền hòa, lững lờ vun bãi, chở đầy phù sa lời mẹ;

Sông Mã dữ dội, dồn dập khua chiêng, đánh thức trống ngực anh hùng.

Tiến có biển rộng, trời cao mở ngõ;
Lui có rừng sâu, núi thẳm che lưng.
Địa lợi sắp bày, khí thiêng hội tụ;
Hồn sông kết huyệt, mạch núi dồn long.

Kìa thuở trước:
Một tiếng thét Bà Triệu, “cưỡi cơn gió mạnh”, dậy thành nội, rạn hào Đông Ngô;
Chí lớn Dương Đình Nghệ, nuôi ba nghìn tráng sĩ, gột nghìn năm tủi hận.
Triều trước dựng nền: Tiền Lê mở cõi; Hậu Lê yên bang;
Nhà Hồ đắp lũy; Chúa Trịnh luyện binh; Chúa Nguyễn khai hoang; Nhà Nguyễn định phận.

                                                                      Núi Hàm Rồng

Văn thần, võ tướng, lớp lớp nổi lên như mây tụ;
Hiền kiệt, anh hùng, đời đời soi sáng tựa sao khuê.

Nơi đây, ý trời chiều lòng người, đất và người cùng nương tựa;
Nhìn lại ngàn năm, đạo nghĩa nối tiếp, thanh danh lưu truyền.

Tướng công Hoàng Bùi Hoàn từng răn: “Thanh Hoa đất Long Hưng, chớ đào xẻ núi đồi, e hại địa mạch”;
Tổ lời còn nóng, chuông núi còn ngân—xin khắc xương, xin ghi dạ.

Thế mà rồi:
Đâu phải bằng chứng khoa công mới đo được lòng sông, thước thợ mới đo hết dạ núi;
Thật lạ thay dăm phen trùng hợp, tiếng người xao xác với tiếng non ngậm ngùi.
Thuở làm cầu Hoàng Long, dư vang chạm Hàm Rồng, đá cũng chau mày, mây cũng chùn bước;
Bóng quan trường rợp ngả, bậc lớn bậc cao, tin buồn tiễn cánh hạc bay.

Gần đây nữa:
Thái Miếu trùng tu, giếng ngọc thiên niên bỗng hóa tro tàn nơi cố tự;
Đền Lê Văn Hưu, chùa Hương Nghiêm, lòng dân rần rật, cổ học bồi hồi.
Sổ vàng kỷ luật, một lúc hai mươi mốt người, bút son gạch vội;
Cửa các công đường, tiếng thở dài chen tiếng thỉnh an, nến rơi tro rụng.

Lại nay:
Huyền Tích Am Tiên, móng vừa khơi ở Ngàn Nưa—nơi huyệt đạo khởi binh xưa Bà Triệu;
Huyệt đạo bị động, lưỡi cuốc chạm long căn—mây sầu đọng đỉnh, gió lạ rít khe.
Diễn đàn bốn bể, sóng mạng dâng triều;
Tờ trình mười phương, dư luận nổi sóng.
Tên họ nêu ra, hàng hàng lớp lớp;
Quan cao, chức trọng, tới lui rộn ràng như trẩy hội—
Ấy sự đời khôn giải, hay là long mạch hờn?
Ấy nhân tâm bối rối, hay là thiên ý nhắc?

Hỡi ôi!
Di tích là ký ức của sông, long mạch là hơi thở của núi;
Đụng vào một tấc, đau cả nghìn năm; xén đi một góc, khuyết cả muôn đời.
Giếng ngọc cạn, chữ nghĩa khô; miếu xưa lệ, cột kèo rệu rã.
Một nhát cuốc tưởng như chuyện nhỏ—mà đứt dây trầm hương;
Một dãy tường tưởng như trò chơi—mà rạn mạch tim đất.

Vậy nên:
Khó thay giữ đất, dễ thay mất hồn;
Dễ thay xây gạch, khó thay dựng lễ.
Núi đã có quy, sông đã có phép;
Dân đã có lòng, sử đã có lời.
Bậc cầm cân nảy mực, xin nghe hơi thở cổ thiên;
Người giữ ấn cầm quyền, chớ phụ tiếng chuông tịch mịch.

Xin mượn lời xưa mà nhắc:
Đất Long Hưng — trọng như mệnh nước;
Mạch địa linh — quý tựa sinh linh.
Đào một thước, nghĩ nghìn sau;
Xẻ một gang, tạ muôn trước.
Thà dựng rào chắn cuốc, còn hơn mở cửa họa;
Thà khép tay tham, còn hơn mở tay tội.

Than rằng:
Quan trường có luật, sơn hà có linh;
Luật công mà nghiêm, linh sơn tự tĩnh.
Chạm vào di tích—dân tình động;
Nghịch với long mạch—quan lộ nghiêng.
Chữ “đức” làm nền, thì mưa tạnh gió yên;
Chữ “tham” làm cột, thì sấm gào chớp giật.

Ngẫm lại mà coi:
Không phải thần linh sắp đặt, cũng chẳng phải ngẫu nhiên vô cớ;
Nhân quả ở người, ứng hiện ở cảnh.
Xứ Thanh giữ mạch đất—ắt sẽ giữ mạch người;
Giữ mạch người—ắt sẽ yên mạch nước.
Đừng để mỗi dịp trùng tu thành một phen trắc nghiệm;
Đừng để mỗi nhát cuốc thành một khúc ai ca.

Kết rằng:
Sông Chu cứ hiền, Sông Mã cứ hùng—hai dòng hợp tiếng;
Hàm Rồng đừng rạn, Ngàn Nưa đừng đau—một dải yên bình.
Trước có tiền nhân, sau có cháu con—tay trao tay giữ lửa;
Trong thuận lòng dân, ngoài trọn phép nước—đá nở hoa trên bờ cũ.
Ngày ấy, sẽ thấy:
Thái miếu trăng ngời, giếng ngọc trong như mát mắt;
Đền xưa chuông ngân, cầu mới vững như lòng đá.
Quan thanh liêm, dân an lạc;
Địa linh bền, nhân kiệt thịnh.
Một đạo phú này, xin gửi cùng mây núi Xứ Thanh—
Để nhắc: giữ long mạch không chỉ giữ hình sông thế núi, mà giữ cả mệnh trời trong lòng người.

Lại thêm rằng:
Giữ thanh liêm giữa chốn quan trường—khó thay! Khó hơn mò kim đáy biển;
Cầm ấn giữa vòng danh lợi—khó nhường! Khó tựa vớt trăng đáy sông.
Cái sự “hạ cánh” cho yên—há bởi tài năng, đức độ;
Cái chuyện về bờ cho ấm—đâu do mưu lược, khôn ngoan.
Rốt lại cũng chỉ: phúc nhà còn thì mưa nắng cũng che;
Phúc đã cạn, gió bụi dập vùi—cánh chuồn nao kịp xoay.
Vậy mới hay: vinh hoa là khách qua đường;

              Vạn đại chỉ có ở dân.

Ngày lành bút thảo, thương lắm Xứ Thanh, kính cẩn soạn!

Ghi chú: Nhiều sự kiện trong bài phú chưa có bằng chứng khoa học; chỉ là thống kê những sự trùng hợp ngẫu nhiên để giãi bày tâm trạng, giải trí và tiễn đưa các vị ra đi trong thanh thản.

Các vị có ăn trộm con gà, con vịt đâu mà phải xấu hổ, tủi nhục. Việc các vị đi có đoàn, có đội, có quân, có tướng, đông vui như trẩy hội; báo đài đưa tin, mạng xã hội, xóm trên ngõ dưới luận bàn, ở đâu mà không thế. Thời thế, thế thời như thế; gặp tôi cũng thế. Ở cái thời “hạ cánh an toàn”, giữ được thanh danh đâu hẳn do tài đức, mà còn phụ thuộc phúc nhà còn hay hết mà thôi.

Đáng chú ý là những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Gần ba mươi năm trước, khi xây cầu Hoàng Long, hai vị lãnh đạo cao nhất tỉnh Thanh Hóa và nhà thầu đều ra đi ngoài kế hoạch. Vài năm trước, dự án trùng tu Thái Miếu Nhà Lê gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học và người dân; giếng ngọc ngàn năm tuổi ở đền thờ Lê Văn Hưu—“mắt rồng” của Bối Lý xưa, Phủ Lý/Kẻ Rị nay—bị phá (thu hẹp) khi trùng tu, khiến dân tình nổi sóng. Ngay sau đó, hai mươi mốt vị lãnh đạo, quan chức xứ Thanh “đi trẩy hội”, gây chấn động, đông nhất thời bấy giờ (2022).

Vài tháng gần đây, khi đào xới Ngàn Nưa—huyệt đạo quốc gia—gây nhiều tranh cãi xa gần, thì nhiều vị trong số ấy lại bỏ việc nhà, việc quan để “đi trẩy hội”.

Quả là “nhân tính không bằng trời tính”; mà trời làm được việc đó cũng nhờ sự “kiên định” của các vị khi bỏ ngoài tai dư luận. Quả thực, “trên” biết hết: hãy làm tròn trách nhiệm của mình, phần còn lại để Thần linh lo.

Nghe nói: sau sự kiện hai mươi mốt vị “đi trẩy hội”, Thanh Hóa đã tổ chức Hội thảo “Trùng tu sau trùng tu Thái Miếu Nhà Lê”.). Giếng Ngọc đền thờ Lê Văn Hưu sau được khôi phục lại, nhưng vẫn nhỏ hơn gần 3 m.

 


Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn