Hiền
tài là nguyên khí của quốc gia (Theo Thân Nhân Trung, TK 15), thì việc sinh
thành và dưỡng dục được hiền tài không chỉ là phúc lớn cho gia đình, dòng họ,
quê hương mà còn cho toàn thiên hạ. Do vậy, các bậc minh quân, thánh nhân luôn
trọng dụng hiền tài. Nguyễn Mộng Tuân (Đông Anh, Đông Sơn) đã đúc kết “Danh khôi thiên hạ chân nam tử; Quốc lại
nhân hiền cổ đế vương”; tạm dịch: Tiếng
thơm trong thiên hạ thuộc về người quân tử; các đế vương xưa thường dùng người
hiền tài để trị quốc.
Có
thể nói thế núi, hình sông, truyền thống hiếu học đã góp phần tạo nên “Nguyên
khí” của Xứ Thanh. Nói đến Xứ Thanh, người
đời không chỉ biết đến vùng đất phát tích các vương triều: Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê,
Nguyễn; chúa Trịnh, chúa Nguyễn, Nhà Nguyễn mà còn biết đến vùng đất có truyền thống
khoa bảng.
Nhìn
vào bảng thành tích khoa bảng Kẻ Rị (Thiệu Trung), làng Vĩnh Trị (Hoằng Quang)
nói riêng, Thanh Hóa nói chung, nhiều người khó có thể kiềm chế được sự ngưỡng
mộ mà trầm trồ thốt lên rằng: Vùng đất này, dòng họ kia thật sự có truyền thống
khoa bảng; nơi đã sinh thành, dưỡng dục bao “Hiền tài” đóng góp đáng kể trong
việc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và hình thành văn hóa Việt.
Nhìn
chung các bậc Khoa bảng Xứ Thanh không chỉ nổi danh bởi chữ nghĩa, mà còn để lại
cho đời nhiều bài học về trách nhiệm với quốc gia dân tộc. Như Lê Quát (Thiệu
Trung, Thiệu Hóa) một nho thần gặp cảnh vận nước đi xuống, muốn làm sáng tỏ đạo
thánh hiền, gạt bỏ dị đoan để khai thông bế tắc, nhưng đành bất lực. Khi quân
Chiêm Thành tiến vào Thăng Long, bắt sống Lê Giốc (con của Lê Quát), nhiều người
đầu hàng và bỏ chạy, “Nhiều người
theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy, ông cả
giận nói: "Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man
à?" (Rồi) chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình,
truy tặng (ông) là Mạ tặc trung vũ hầu”. (Lịch triều hiến chương loại chí).
Thiều Quý Linh (Đông
Văn, Đông Sơn) đi sứ nhà Minh, khi trở về thấy Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê,
chửi không tiếc lời, bỏ về quê nhảy xuống sông tự tử để giữ chữ Trung. Tống Duy Tân (Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc) không màng
địa vị danh lợi, từ quan để tham gia Phong trào Cần Vương. Ông là một trong những lãnh tụ Cần Vương chống
Pháp. Ông bị Pháp bắt và giết tại Thanh Hóa (10.1892).
Phó bảng Nguyễn Đôn Tiết (Hoằng
Phúc, Hoằng Hóa) đã đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích của nhà vua, gặp cảnh
đất nước lâm nguy, ông không tán thành với sự nhu nhược của triều đình Nguyễn. Ông
tham gia Phong trào cần Vương, bị bắt trong trận 12 - 3 -1886 khi chỉ huy nghĩa
quân đánh thành Thanh Hóa. Thực dân Pháp đày đi Lao Bảo và ông mất ở trong tù.
Con trai ông là Nguyễn Hiệu Tư hi sinh ở chiến lũy Ba Đình. Con trai thứ là
Nguyễn Đôn Dự đậu giải Nguyên, tham gia phong trào Đông Du, bị Pháp bắt đày đi
Côn Đảo.
Khoa
bảng không phải là con đường duy nhất, nhưng là con đường thênh thang nhất dẫn
đến sự thành công trong cuộc sống.
Khoa
thi năm 1589 lấy 4 người, thì đều là người Thanh Hóa. Nhưng khoa thi năm 1604, 1613, 1616…không có người
Thanh Hóa đậu.
Bảng thống kê các kỳ thi đình trong toàn
quốc từ năm 780 đến năm 1919.
Các triều đại |
Năm |
Số khoa thi |
Số tiến sĩ cả nước |
Số tiến sĩ Thanh Hóa |
Tỷ lệ số người Thanh Hóa đỗ |
Thi tại Trung Quốc |
780 -804 |
|
|
2 |
|
Lý - Trần - Hồ |
1009 - 1407 |
20 |
509 |
13 |
3% |
Lê |
1428 -1527 |
51 |
657 |
49 |
7% |
Mạc |
1527 -1592 |
22 |
483 |
25 |
5% |
Lê - Trịnh |
1549 -1789 |
56 |
782 |
89 |
11% |
Nguyễn |
1802 - 1919 |
39 |
558 |
29 |
5% |
Tổng |
|
188 |
2.989 |
206 |
6,8% |
Trong
số 206 ông Nghè Xứ Thanh: Có 6 trạng nguyên, 8 bảng nhãn, 6 thám
hoa. Trường hợp Lê Quát, Thiệu Trung, Bia Văn chỉ huyện Đông Sơn và Bản xã Tiên
hiền Phủ Lý chép ông đỗ Trạng Nguyên năm 1345 (Khoa này nhà Trần không chép rõ
danh sách người đỗ), Gia phả họ Lê Đình, Tân Ninh, Triệu Sơn, chép ông đỗ Thái
Học Sinh}.
Nếu
xem trạng nguyên (huy chương Vàng), bảng nhãn (Bạc), Thám Hoa (Đồng). Do vậy, tạm
xếp thứ tự đỗ cao theo đơn vị hành chính cấp huyện, TP. (đơn vị hành chính trước
năm 2017), như sau:
STT |
TP, huyện |
Tổng số |
Trong đó |
1 |
TP.Thanh Hóa |
36 |
1 trạng nguyên, 2 bảng
nhãn, 1 thám hoa |
2 |
Thiệu Hóa |
29 |
2 trạng nguyên (Trường hợp Lê Quát đang còn nhiều nguồn khác
nhau), 1 bảng nhãn |
3 |
Yên Định |
10 |
1 lưỡng quốc trạng
nguyên, 2 bảng nhãn |
4 |
Vĩnh Lộc |
15 |
1 trạng, 1 bảng nhãn,
1 thám hoa |
5 |
Hậu Lộc |
9 |
1 trạng nguyên, 1 bảng
nhãn |
6 |
Hoằng Hóa |
23 |
1 bảng nhãn |
7 |
Nga Sơn |
6 |
2 thám hoa |
8 |
Đông Sơn |
12 |
1 thám hoa |
9 |
Thọ Xuân |
12 |
1 thám hoa |
10 |
Nông Cống |
20 |
|
11 |
Triệu Sơn |
17 |
|
12 |
Tĩnh Gia |
8 |
|
13 |
Quảng Xương |
4 |
|
14 |
Hà Trung |
2 |
|
15 |
Chưa rõ huyện |
3 |
|
Tổng |
|
206 |
|
Đã
xác định được quê hương của 206 ông nghè tại 14 đơn vị hành chính cấp huyện, 92
xã. Còn 8 trường hợp chưa xác định được xã, 3 trường hợp chưa xác định được huyện.
Trong số 206 nhà Khoa Bảng
Xứ Thanh:
TẠM XẾP THEO HUYỆN
+ TP. Thanh Hóa có 36 vị
(Có 1 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 1 thám hoa), đứng thứ Nhất về số lượng và đỗ
cao.
+ Huyện Thiệu Hóa có 29 vị,
(Có 2 trạng nguyên, 1 bảng nhãn - trường hợp Lê Quát, còn nhiều tài liệu chưa
thống nhất), đứng thứ Nhì về số lượng và đỗ cao.
TẠM XÉT THEO XÃ
+ Hoằng Quang (TP) đứng
thứ Nhất: Có 22 vị bao gồm 4 phó bảng (1 trạng nguyên, 1 bảng nhãn). Điều này
có nghĩa, xã Hoằng Quang về huyện/TP nào, thì nơi đó trở thành số I;
+ Thiệu Trung (Thiệu
Hóa): Tạm đứng thứ Nhì về đỗ cao: Có 10 vị, trong đó có 2 trạng nguyên, 1 bảng
nhãn – Nếu thống nhất trường hợp Lê Quát là trạng nguyên (theo bia Văn Chỉ huyện
Đông Sơn… ghi ông là trạng nguyên), thứ tự sẽ khác.
TẠM XÉT THEO LÀNG
-
Làng Phủ Lý (tên nôm Kẻ Rị)/Thiệu Trung đứng
thứ Nhất: 10 vị Khoa Bảng (2 trạng nguyên, 1 bảng nhãn);
-
Làng Vĩnh Trị (Hoằng Quang) đứng thứ Nhì:
Có 7 vị (1 trạng nguyên, 1 bảng nhãn).
Nguyễn
Xuân Văn tổng hợp và bình
PS. Chi tiết xem đường link sau